']);_gaq.push(['_trackPageview']);(function () {var ga = document.createElement('script'); ga.type = 'text/javascript'; ga.async = true;ga.src = ('https:' == document.location.protocol ? 'https://ssl' : 'http://www') + '.google-analytics.com/ga.js';var s = document.getElementsByTagName('script')[0]; s.parentNode.insertBefore(ga, s);})();
Đối tác

Thuyết minh về điểm du lịch Đà Nẵng

Thuyết minh về điểm du lịch Đà Nẵng
Thuyết minh về điểm du lịch Đà Nẵng

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHÙA TAM THAI TẠI NGŨ HÀNH SƠN

 Tài liệu thuyết minh về lịch sử hình thành chùa Tam thai tại Ngũ Hành Sơn.

Tại Đà Nẵng ngoài các ngôi chùa Linh Ứng ra thì còn có một ngôi chùa được xem là ngôi chùa cổ nhất tại Đà Nẵng với gần 400 năm, và chứa nhiều ý nghĩa lịch sử nhất là triều đại nhà Nguyễn, nhưng thông tin về nó quá ít. Hôm nay City Tour Đà Nng xin chia sẽ với bạn đọc bài viết này, được Admin viết và sắp xếp lại sau khi sưu tầm từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, hy vọng sẽ giúp các bạn yêu thích và nắm lịch sử nhiều hơn.

Nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, trên ngọn Thủy Sơn, Chùa Tam Thai có tên chữ “Tam Thai tự”, được xây dựng vào năm 1630.  Đến thời Tây Sơn, chùa đã bị hư hại hoàn toàn. Năm Minh Mạng thứ sáu (1825), vua cho xây dựng lại chùa Tam Thai, sức cho quan dân đưa vật liệu lên xây chùa, biến cảnh hoang vu thành nơi phát triển đạo Phật. Chuyện này, dân gian còn nhắc: “Gia Long phát nguyện, Minh Mạng lập chùa”

https://citytourdanang.com/wp-content/uploads/2017/09/IMG_3059.jpg

Câu chuyện ấy lưu truyền nhân gian như sau: Rằng một lần khi Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) thất trận chạy ra đảo nhưng tình thế nguy khốn vì thiếu nước ngọt. Sau lời khấn nguyện, đảo bỗng dưng có nước ngọt, chúa Nguyễn Ánh vì thế qua được kiếp nạn. Mọi người tìm vào đất liền thì gặp giữa cảnh núi non u tịch một thiền sư đang thuyết giảng trong động. Chúa phát nguyện, nếu thắng Tây Sơn sẽ về lập cảnh chùa. Về sau, khi phục quốc xong, vua Gia Long bận rộn triều chính nên chưa thể thực hiện lời hứa ngày trước, nên đã di nguyện lại cho vua kế vị Minh Mạng giúp mình làm tròn đại nguyện. 

Khi hoàn nguyện, khánh thành chùa, vua Minh Mạng ban một tm Kim Bài ghi (phiên âm theo nguyên văn Hán tự): “Ng chế Tam Thai t, Minh Mng lc niên phng to”. Tạm dịch: Ng chế chùa Tam Thai, lp năm Minh Mng th sáu. Kèm theo đó là “qu tim la” bng đng. Mặt trước ghi: “Ngã Như Lai dĩ pháp vương ng thế, hong tế nhân thiên biến hin thp phương hư không thường trú, tác thp đi công đc nhi viêm phương đc hu yên”. Tạm dịch: “Đc Như Lai ca ta đã cai qun thế gian này bng pháp môn vô thượng, rng lòng tế đ cho tri người, thot n thot hin khp mười phương hư không thường trú, to ra mười công đc ln mà không ch riêng nước Nam ta chu ân hu sâu dày này”. Mặt sau ghi: “Minh Mng lc niên kiết nht to”. Tạm dịch: Làm vào ngày tt năm Minh Mng th sáu.

Tam Thai Tự đã được xây dựng lại và kiến trúc của ngôi chùa đã được thay đổi hoàn toàn. Tam Thai tự được xây dựng lại với kiến trúc 3 tầng uy nghiêm, tráng lệ. Tầng thứ nhất là Thượng Thai quay về hướng Bắc. Tầng thứ hai quay về phía Nam gọi là Trung Thai. Và tầng thứ ba là Hạ Thai Thai quay về phía Đông. Đây là kiến trúc theo chữ Vương trong Hán Tự với chi tiết mang tính nghệ thuật và thẩm mỹ cao.

Mái chùa được lợp bằng ngói lưu ly và trên nóc chùa được trang trí tượng hai con rồng dưới nguyệt. Đây là một kiến trúc đặc trưng của đình chùa thời nhà Nguyễn. Trải qua thời gian, diện mạo cảnh quan và kiến trúc xưa của chùa Tam Thai đã có nhiều thay đổi. Công trình kiến trúc hiện nay của chùa bao gồm nhiều hạng mục như: tam quan, sân chùa, Hành cung, chùa chính,… Cổng Tam quan được thiết kế theo kiểu lầu chuông lợp mái, trông rất cổ kính. Sân chùa phía trước là một khoảng sân khá rộng, ở chính giữa có thờ tượng Phật Di Lặc bằng sa thạch – vị Phật thứ năm trong hiền kiếp, hiện thân của ước nguyện thái bình; hai bên là Hành cung – nơi vua Minh Mạng trước đây thường nghỉ ngơi mỗi khi đến vãng cảnh chùa (hiện nay Hành cung chỉ còn cổng và bức tường gạch bao quanh). 

Hai bên vách tiền đường bên trái là Tiêu Diện Đại Sĩ, bên phải là Vi Đà Hộ Pháp – hai vị thần canh giữ cửa chùa. Phần chánh điện bên trong có thờ chính điện ở giữa là thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn 2 bên là Quan Thế Âm Bồ Tát

Ấn tượng với chốn bồng lai tiên cảnh, vua Minh Mạng còn cho xây thêm Vọng Giang Đài – nơi ngắm toàn cảnh quần thể Ngũ Hành Sơn và sông Cẩm Lê, Cổ Cò ở sườn tây nam; Vọng Hải Đài nơi sườn đông để nhìn ngắm biển. Về sau, em gái vua Minh Mạng đã lên Tam Thai để tu hành (Xem nhiều hơn về thông tin này dưới bài viết). 

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử và chiến tranh tàn phá, chùa Tam Thai phải trùng tu vào năm 1992. Khi đó nhà chùa phải thỉnh “quả tim lửa” xuống khu nhà thờ Phật bảo quản một thời gian. Khi trời bão gió, nhà sư chằng chống lại Nhà Tổ chứ không dịch chuyển tấm kim bài đi nơi khác. Theo Thượng tọa Thích Thanh Mãn, dù chùa ở trên núi cao nhưng từng bị mất nhiều cổ vật như lư hương, chuông đồng. “Riêng tm kim bài này đang được bo qun an toàn. Ti đến, đích thân thy ra ng Nhà T, cnh tm kim bài đ trông coi“, Thượng tọa Mãn nói.
Ngồi trầm ngâm, vị Thượng tọa bảo dù “quả tim lửa” gắn với ngự bút của vua Minh Mạng – vị vua được đánh giá là anh minh nhất triều Nguyễn – nhưng mãi đến những năm gần đây, đặc biệt là sau lần hạ sơn tham gia triển lãm “Tinh hoa cổ vật Phật giáo Việt Nam” hồi tháng 8/2013, nhiều người mới biết đến giá trị của nó.

“Hàng ngày có rất nhiều du khách đến chùa, nhưng chỉ khi nào hướng dẫn viên giới thiệu họ mới biết đến quả tim lửa và câu chuyện về vua Minh Mạng”, vị trụ trì tiếc nuối.

Ông Lê Quang Tươi, Trưởng Ban quản lý Khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, cho biết “quả tim lửa” thuộc quyền sở hữu của nhà chùa. Ngoài việc tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu văn hóa tiếp cận tấm kim bài này, phía Ban quản lý cũng phụ giúp việc bảo vệ, quảng bá trên phương tiện thông tin đại chúng.

Đến đây City Tour Đà Nng tiếp tc xin mn phép chia s đến bn đc 2 câu chuyn liên quan v Chùa Tam Thai, có l đây s là nhng tài liu quý cho nhng bn thích lch s ngôi chùa này:

1. Huyền sử̀ công chúa triều Nguyễn ẩn tu ở Ngũ Hành Sơn:

Chùa Tam Thai được cho là nơi xưa kia vị công chúa triều Nguyễn đã đến ẩn tu. 

Sử xưa chép rằng, từng có vị công chúa là em của vua Minh Mạng đến núi Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) để ẩn tu. Nàng công chúa ấy tên gì và do cơ duyên nào rời bỏ cung vàng điện ngọc đến chốn cửa Thiền khoác áo nâu sồng, đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn?

Rất ít sử liệu viết rõ về điều này, tuy nhiên trong nhiều bút ký của người phương Tây khi đến viếng cảnh Ngũ Hành Sơn đã có nhắc đến. Bougainville khi mô tả vùng ven của các hòn núi Ngũ Hành Sơn đã viết: “Gần các ngôi làng có một ngôi nhà nhỏ được trang hoàng xinh xắn. Đây là nơi ẩn cư trong thời gian dài của một người em nhà vua; bà này đã sống tại đây, xa lánh mọi người trong sự tịnh tâm”. Một bút ký khác miêu tả rõ hơn: “Đây là một thạch thất, là nơi mà một nữ trinh nguyên luống tuổi, con vua Gia Long em vua Minh Mạng đang làm vua tại Nam Kỳ, đã muốn đổi những tiếng ồn vô ích tại triều đình, để lấy về những âm thanh u huyền của gió mùa đông bắc rì rầm xuyên qua các hòn núi đá. Đổi sự nhộn nhịp của những gì cao sang vua chúa để lấy về sự tĩnh mịch lắng trầm; đổi sự sang trọng xa hoa của ngôi cao công chúa để lấy về một vẻ đẹp đời thường và nghiêm khắc của một chiếc áo mộc mạc mà thiên nhiên đã ôm ấp…”.

Ngoài ra, cũng có không ít sách biên khảo của người Việt cũng ghi lại sự tích này như: Quảng Nam xưa và nay của Di Lão Hồ Ngận, Đạo lý nhà Phật của Đoàn Trung Còn hay Lịch sử Ngũ Hành Sơn – Chùa Non Nước của Thượng tọa Thích Hương Sơn – Trí Hữu… Lịch sử còn ghi, không ít lần vua Minh Mạng thân chinh hoặc sai đại thần đến Ngũ Hành Sơn để đón công chúa về kinh đô Huế nhưng bà đều từ chối. Tương truyền bà đã gửi về cho nhà vua một bài thơ bày tỏ ý nguyện theo đường tu hành nên vua Minh Mạng không ép nữa. Cũng có người nói rằng, công chúa ra điều kiện ai đối được bài thơ ấy thì nàng sẽ lai kinh và kết hôn, nhưng không ai đối được! Thơ rằng: Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ/ Càng nhìn càng ngẫm lại càng nhơ/ Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm/ Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa/ Chu tử ngán mùi nên vải ấm/ Đỉnh chung lợm giọng hóa chay ưa/ Lên đài cứu khổ toan quay lại/ Bể ái trông ra nước đục lơ.

Theo sách Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn thì vua Gia Long có tất cả 18 nàng công chúa: 4 người là chị và 14 người là em vua Minh Mạng. Trong số 14 người  đó có nàng công chúa thứ 10 cuộc đời gặp phải cảnh ngộ rất bi đát. Đó là An Nghĩa Công Chúa tên là Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn. Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đã gả bà cho ông Lê Văn Yến là con trưởng của ông Lê Văn Phong và là con thừa tự của Tả quân Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên đến năm Ất Mùi (1835), triều đình xử vụ án Lê Văn Duyệt nên Lê Văn Yến bị tội phải chết.

Nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Công Thuần cho biết, trong Gia phả họ tộc Lê Văn còn ghi rõ về sự kiện này. Chuyện rằng, triều đình xét xử vụ nổi loạn chiếm thành Phiên An của Lê Văn Khôi, các quan triều đình đã dâng sớ lên vua Minh Mạng buộc Lê Văn Duyệt 7 tội phải chết. Vua Minh Mạng nghị triều phán xét Lê Văn Duyệt dù đã chết, tội vẫn phải truy; lẽ ra đào mộ phanh thây, nhưng nghĩ công lao của Lê Văn Duyệt với tiên đế, nên ra chỉ dụ san bằng mồ mả Lê Văn Duyệt ở xã Bình Hòa (TPHCM ngày nay) và cắm bia khắc chữ “Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử”.

Năm 1838, kinh thành Huế chứng kiến cảnh điêu linh của dòng họ Lê Văn,  phò mã Đô úy Lê Văn Yến (là chồng công chúa Ngọc Ngôn) được vua Minh Mạng ban ân cho tự chết, còn 7 người em kế bị buộc tội làm phản nên giam giữ đến ngày 23-3 năm Mậu Tuất (1838) thì đưa ra hành quyết. Con cháu họ tộc Lê Văn từ 15 tuổi trở lên đều quy tội chết, dưới 15 tuổi trảm giam hậu (nghĩa là tội chết nhưng giam lại chờ mỗi năm xét án mùa thu, may ra có thể được tha chết). Con của Lê Văn Yến và công chúa Ngọc Ngôn do còn nhỏ nên khỏi tội chết, nhưng đày đến Cao Bằng. Khi vua Tự Đức lên ngôi, vào năm 1847 các quan triều đình dâng sớ tấu xin xét lại các vụ án oan của các đại thần là Lê Chất, Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành. Sau khi xét tội, vua Tự Đức đã ban chỉ dụ xóa tội trạng cho các vị đại thần ấy. Những người con của Lê Văn Yến bị đày ra Cao Bằng đã được trở về, phẩm hàm và quyền lợi của gia tộc dần được phục hồi.

“Tuy các sử liệu không nói gì đến việc công chúa Ngọc Ngôn đi tu, nhưng xét hoàn cảnh bi đát trên có thể thấy việc xuất gia của nàng là rất phù hợp. Vì thế lúc bấy giờ, nàng chỉ biết tìm sự giải thoát qua câu kinh tiếng kệ ở chốn thiền môn như lời thơ  Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm/ Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa”-ông Thuần cho hay. Tuy nhiên, ở danh thắng Ngũ Hành Sơn, nhiều người nói rằng, em gái vua Minh Mạng đã xin xuất gia thọ giới với ngài Viên Trừng tại chùa Tam Thai với cái tên là Ngọc Lan. Ý kiến khác nói, sau khi rời động Huyền Không, Ngọc Lan đã đến tu hành và lập chùa ngay trong động Phổ Đà Sơn, ban đầu chỉ là một am nhỏ được xây dựng ẩn kín trong hang. Về sau vua Minh Mạng tới thăm và cho tu sửa lại chùa… Về tên của công chúa, ông Thuần giải thích rằng, sau khi xuất gia, công chúa Ngọc Ngôn đã đổi tên thành Ngọc Lan. Sau này, khi được vua Tự Đức minh oan, công chúa Ngọc Ngôn đã rời Ngũ Hành Sơn trở về sống với các con tại phủ thờ Vọng Các công thần Lê Văn Duyệt ở thôn Phú Mộng (P. Kim Long, thành phố Huế). Đến năm 1854, bà đã được vua Tự Đức phong An Nghĩa Thái trưởng công chúa. Bà qua đời năm 1856, mộ đặt gần mộ ông Lê Văn Yến ở làng Nguyệt Biều tổng Cư Chánh, huyện Hương Thủy.

2. Vua Minh Mng vi chùa Tam Thai:

Riêng vua Minh Mạng đã có đến ba lần ngự giá Ngũ Hành Sơn, thăm thú chùa chiền hang động và ban thưởng hậu cho các tự viện, các chùa Tam Thai, Linh Ứng được ban sắc tứ, trở thành quốc tự của triều đình. Sử nhà Nguyễn cho biết: “Mùa hạ, tháng 5 Minh Mạng thứ 6, vua xa giá tam tuần. Ngày Mậu Tuất, thuyền ngự đến bến Hóa Khuê. Hạ lệnh xa giá lên Ngũ Hành, đến hai chùa Trang Nghiêm và Bảo Đài xem khắp hang động và các bi ký. Bảo thị thần rằng: “Núi này là danh thắng bậc nhất, các thánh triều ta khi rỗi công việc thường đến chơi đây”. Sau chuyến đi trở về, vua Minh Mạng đã lệnh cho tôn tạo Ngũ Hành Sơn, trong đó chủ yếu là xây dựng và sửa sang các chùa chiền, tô tượng, đúc chuông, ban cấp kinh sách. Công việc đều do quan chế triều đình quản lý trông nom, gồm Thiêm sự Bộ Công, Liên Hòa Hầu Nguyễn Công Liêu, Hàn Lâm viện Thị độc, sung Hành tẩu văn thư phòng, Văn Đức Bá Vương Hưng Văn, Cai đội thừa biện ở Vũ Khố, Hiệu Tài Hầu Trần Văn Hiệu. Mọi chi phí đều do triều đình quyết định, dùng tiền, thóc ở kho Quảng Nam để chi trả. Đặc biệt, hoàng thái hậu cũng ban cho hàng trăm lạng bạc. Sự kiện này được Châu bản triều Nguyễn cho biết kỹ: ngày mồng 1 tháng 6 năm Minh Mạng thứ sáu “truyền phái Thiêm sự Bộ Công là Nguyễn Công Liêu, Lang trung nội tạo là Vương Hưng Văn trông coi việc tu bổ, cho xuất tiền kho Quảng Nam ba ngàn quan cùng với số tiền ba trăm lượng bạc của Hoàng thái hậu ban cho công trình tu bổ. Còn các thứ đồng, sắt, gạch, vôi nếu cần chi tiêu, chuẩn cho tư trình nha môn này cấp phát, xong việc tâu luôn một thể…” Do khối lượng công việc nhiều, chi phí lớn nên chỉ 20 ngày sau, ngày 20 tháng 6 năm Minh Mạng thứ 6, vua đã truyền chỉ cho Nguyễn Hữu Thận, Nguyễn Văn Thục nói rõ: “Nay nghĩ vì công trình khá lớn, truyền cho xuất thêm lúa kho dinh ấy phát giao 500 hộc cho nguyên phái viên Nguyễn Công Liêu và Vương Hưng Văn nhận lãnh chước lượng thuê cấp nhân công làm việc”. “Tháng 6 sửa hành cung và chùa miếu ở núi Tam Thai, tỉnh Quảng Nam. (Một sở hành cung “Động thiên phúc địa”, một chùa Tam Thai, một chùa Trang Nghiêm, một miếu Thiên Y Ana Diễn Ngọc Phi, một chùa Ứng Chân, một miếu Tượng Thành, một chùa Từ Tâm và các sở cửa Vân Căn Nguyệt Quật, cửa Tam Quan, cửa Linh Quan, sơn phòng và nghi môn)”.

Ngoài hai chùa nói trên, còn các tự viện ở Ngũ Hành Sơn có được vua Minh Mạng ban cấp gì không thì không thấy sử liệu nào nhắc đến. Song, chúng tôi (Lê Xuân Thông nhà nghiên cứu lịch sử nổi) nghĩ rằng, vua Minh Mạng đã từng lưu lại ở động thiên Phước Địa (Ngũ Hành Sơn) đến bốn ngày, cũng đủ để cho thấy thái độ của nhà vua đối với Phật giáo Ngũ Hành Sơn là cởi mở, quan tâm và trong một chừng mực nhất định nào đó có cả sự nể trọng. Bởi lẽ, thời gian trên quá thừa để nhà vua ngự lãm cảnh quan, mặc dù đây đã là lần thứ hai hoàng đế triều Nguyễn xa giá đến Ngũ Hành Sơn. Chắc chắn nhà vua còn bận chuyện đàm đạo với các danh tăng và có lẽ, còn thực hiện các nghi lễ Phật giáo tại đây.

Sau chuyến đi này, đúng 10 năm sau, tháng 4 năm Minh Mạng thứ 18 (1837), vua Minh Mạng trở lại Ngũ Hành Sơn. Sử nhà Nguyễn chép: “Khi trẫm bắt đầu ra đi, trước mặt đã vâng lời Từ Dụ, nên cúng 100 lạng bạc ở núi Ngũ Hành, vậy cho phát bạc ở kho Quảng Nam 100 lạng và trẫm cũng bố thí 1000 quan tiền, giao cả cho bố án để chi tiêu thay vào các tiết hằng năm, và ngày Thánh thọ đại khánh tụng kinh làm phúc để cầu Thánh mẫu Hoàng thái hậu ta sống lâu mãi mãi; dưới đến thần dân đều được khỏe mạnh vui vẻ”. Lần này Ngũ Hành Sơn không chỉ nhận được sự quan tâm của vua Minh Mạng mà còn cả ân huệ của bà Hoàng thái hậu Trần Thị Đang.

Tiếp sau vua Minh Mạng, Phật giáo Ngũ Hành Sơn vẫn nhận được sự ưu ái của các vua Thiệu Trị, Tự Đức và cả vua Thành Thái sau này. Đối với vua Thiệu Trị, ông nối ngôi ngày Bính Ngọ 20 tháng giêng năm Tân Sửu (1841). Sau lễ đăng quang tại điện Thái Hòa, ngày 16 tháng 2 năm Tân Sửu, vua đã xuống dụ tổ chức lễ trai đàn tại các chùa ở Ngũ Hành Sơn để khao mừng. Nhà vua vẫn duy trì việc ban cấp kinh phí cúng tế cho các chùa Tam Thai và Ứng Chân theo quy chế chùa quan đã có từ tiền triều; mặt khác, quan trọng hơn, vua Tự Đức còn ban cấp ruộng đất cho các chùa trên để có thêm nguồn thu trang trải công tác Phật sự.

Trong mười mấy năm trị vì của mình, vua Thành Thái cũng ban những ân điển và vinh hạnh cho Phật giáo Ngũ Hành Sơn. Niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1894), vua đã chuẩn y đề xuất của quan tổng đốc Nam Nghĩa được bộ Lễ tâu trình về việc tu sửa chùa Tam Thai và Linh Ứng; đến năm thứ 9 (1897) lại cấp cho kinh phí để tạo khắc lại các tấm biển ở các chùa. Cũng trong năm này, vua còn chuẩn cho xây dựng thêm một nhà ở cho vị tăng cang (chức phẩm cao cấp nhất của Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ) mới được bổ nhiệm kiêm quản hai chùa Tam Thai và Linh Ứng. Đặc biệt, theo tấm văn bia chùa Linh Ứng lập năm Ất Mão Duy Tân thứ 9 (1915) cho biết, năm Thành Thái thứ 14 (1902) vua đã “đích thân ngự giá đến chùa Tam Thai, Linh Ứng để tổ chức trai đàn cầu nguyện”, đồng thời ban thưởng hậu cho thiền sư trụ trì.

T chc, sinh hot Pht giáo Ngũ Hành Sơn dưới s h trì ca nhà Nguyn:

Là một trung tâm Phật giáo được nhà Nguyễn nâng đỡ, ngay từ thời Minh Mạng, việc gánh vác công tác Phật sự ở Ngũ Hành Sơn đều do triều đình lựa chọn và cắt đặt những danh tăng ưu tú. Vị thiền sư đầu tiên được vua Minh Mạng bổ về làm trụ trì chùa Tam Thai năm 1826, là Viên Trừng đại sư. Còn chùa Ứng Chân, vua Minh Mạng đã sắc dụ Chân Như đại sư giữ chức trụ trì. Đúng như nhận định của A.Sallet là “cách phân phối các thầy tu đến với các chùa không lệ thuộc vào ý muốn riêng tư mà vào các quy tắc trong các sắc lệnh của triều đình. Cấp bậc và danh hiệu của các thầy tu cũng như vậy”. Theo Ngũ Hành Sơn lục, thì sau một thời gian hai vị trụ trì đã “tăng mộ thêm 11 vị tăng chúng, tổng cộng là 17 người. Chùa Ứng Chân trụ trì 1 người, đại sư 2 người, tăng chúng 4 người”. Sau lần điều chuyển tăng sư trụ trì từ kinh đô Huế về quản lý, lãnh đạo tại Phật giáo Ngũ Hành Sơn nói trên của triều đình, trong suốt thế kỉ XIX, việc quản lý, điều hành sơn môn tại đây đều được lựa chọn từ những thiền sư tinh nghiêm giới luật, am tường khoa phạm chủ yếu tại hai quốc tự Tam Thai, Ứng Chân và ở khu vực Hội An. Điều đặc biệt trong việc tổ chức tăng chế ở Phật giáo Ngũ Hành Sơn là vào tháng 10 năm Thành Thái thứ 7 (1895) triều đình còn sắc chuẩn thêm một vị tăng cang cai quản chung hai chùa Tam Thai và Linh Ứng. Trong khi, ở mỗi chùa vẫn duy trì chức trụ trì để cai quản riêng. Tăng cang được triều đình chuẩn cấp cho xây dựng nhà ở riêng biệt. Người đầu tiên được vinh dự này là thiền sư Ấn Lan – Tổ Huệ – Từ Trí, lúc bấy giờ đang giữ chức trụ trì chùa Linh Ứng.

Sinh hoạt của các sư tăng ở Ngũ Hành Sơn có thể nói là đạm bạc và khắc khổ, lấy sự tu chứng đạt quả làm mục đích để từng bước từ bỏ những giả hoặc của cõi đời ô trọc, giả tạm. A.Sallet miêu tả: “Các thầy tu tại núi này có cuộc sống giống như các thầy tu tại các núi cao khác, hay tại các hòn đảo trên sông biển, nhưng dầu sao thì cũng có chút ít đặc biệt do bởi khung cảnh núi non riêng của nó, và bởi sự thờ cúng được phân bố thể theo sự phân tán của các địa điểm thờ cúng”. Bởi vậy, những đệ tử thiền môn nơi đây “phải có tấm lòng sùng kính đối với sự huyền nhiệm cao sâu, cũng như ý tưởng dứt khoát từ bỏ mọi điều trần giới thì mới có thể dấn thân vào cái lam chướng của các hòn núi, và vào cái u buồn hoang dại, của một sự yên lặng gần như tuyệt đối ở giữa thế giới loài người”. Thực ra, trước A.Sallet đã có nhiều người Pháp, phần nhiều là quân nhân, đến viếng Ngũ Hành Sơn và đã có những ghi chép, nhận định về đời sống tu hành của các nhà sư nơi đây, nhưng có vẻ như thiếu một thái độ thiện chí và sự nhìn nhận tinh tế, nên lời lẽ của họ không mấy nhã nhặn, và quan trọng hơn là không phản ánh được sự thật.

Các nhà sư không chỉ trì giới, giữ phép tam quy mà nhất là các thiền sư đạo hạnh uyên thâm còn chăm lo đến việc hoằng pháp, dẫn dắt và đào tạo đệ tử, tăng chúng sớm giác ngộ, đắc pháp. Một trong những việc làm quan trọng là mở các giới đàn truyền giới cho tăng chúng. Ngũ Hành Sơn lục đã chép về cuộc lễ này như sau: “Trước đó một năm, thỉnh chư tăng các chùa định ước ngày họp bàn về việc mở đại giới đàn để tiến dẫn tăng chúng. Chư tăng đồng tâm hỗ trợ, sau đó, công bố cho chư tăng các chùa đều biết mà chuẩn bị chọn ngày. Trước lễ ba ngày, rước thỉnh chư tăng quang lâm đến chùa đã được định trước, cung thỉnh chư tôn an bài chức sự: một vị hòa thượng chỉ kỳ, một vị hòa thượng đàn đầu, một vị hòa thượng yết ma, một vị hòa thượng giáo thụ, bảy vị xà lê tôn chứng, bốn vị dẫn lễ, một vị tuyên luật sư, hai vị sa di thủ vĩ.

A.Sallet khi đến Ngũ Hành Sơn, thông qua lời kể trực tiếp của thiền sư Từ Trí, đã cung cấp thêm: khi tiến hành lễ, người ta đánh chuông gõ mõ ăn nhịp đều đặn; rồi đọc kinh; tiếp theo là nói về bổn phận của người tu hành; sau đó thì các người phát nguyện dự thi tiến hành cuộc thi. “Người ta đặt một hạt nhựa có mùi thơm tại một điểm được ấn định trên đầu và đốt nó, nhựa thơm bốc cháy (…). Sau hết là hòa thượng trao bằng cho thầy nào đã chịu đựng được ba vết cháy của ba hạt nhựa thơm, nhằm công nhận họ đã trúng tuyển để đảm nhận chức vụ thiêng liêng”.

Năm 1893, khai mở đại giới đàn tại chùa Chúc Thánh (Hội An), với sự chứng đắc của nhiều vị thiền sư danh tiếng đất Quảng, trong đó có Phật giáo Ngũ Hành Sơn. Thiền sư Ấn Thanh – Tổ Đạo – Chí Thành lúc bấy giờ đang làm trụ trì chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn) được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu. Giáo thọ A xà lê là thiền sư Vĩnh Gia (trụ trì chùa Phước Lâm Hội An), Yết ma A xà lê là thiền sư Chân Tâm – Pháp Tạng (trụ trì chùa Phước Sơn – Phú Yên). Những sinh hoạt Phật giáo như trên đã ít nhiều phản ánh mối quan hệ của các tăng sư giữa các nhà chùa, các địa phương khác nhau trong hoạt động hoằng dương Phật pháp. Mặt khác, nó cũng cho thấy uy tín, đạo hạnh của các thiền tăng Phật giáo Ngũ Hành Sơn.

Như vậy từ năm 1825, Phật giáo Ngũ Hành Sơn đã nhận được ân điển của vua triều Nguyễn, xây dựng và tu sửa các chùa chiền. Trong đó chùa Tam Thai và chùa Ứng Chơn là hai ngôi chùa được vua Minh Mạng ban biển ngạch sắc tứ, được triều đình liệt vào hạng chùa quan, trở thành quốc tự của triều Nguyễn. Vì vậy, mọi việc liên quan ở đây đều do triều đình bao cấp và quản lý. Triều đình đã ban cấp ruộng đất và tiền bạc để đảm bảo đời sống và sinh hoạt cho sư tăng cũng như tôn tạo các cơ sở thờ tự. Những ghi chép rải rác trong chính sử nhà Nguyễn cùng với truyền khẩu của các sư tăng ở Ngũ Hành Sơn và những đoạn miêu tả của A.Sallet khi ông đến khảo sát ở đây vào đầu thế kỷ XX, cho chúng ta một hình dung tối thiểu về kiến trúc cơ bản của các chùa Tam Thai và Linh Ứng lúc bấy giờ. Cả hai chùa đều có các công trình gồm nhà chính điện, nhà tổ và nhà tăng, riêng chùa Tam Thai có thêm cổng tam quan kiểu vòm cuốn có cổ lâu. Cổng này đến nay vẫn còn giữ được kiểu thức cơ bản. Song, có lẽ do sự biến động dữ dội của hoàn cảnh lịch sử – xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chùa chiền Ngũ Hành Sơn không còn được triều đình quan tâm như trước. Sự ảnh hưởng, hủy hoại của chiến tranh, tín hữu ly tán nên thiền môn cũng nhanh chóng rơi vào cảnh ngộ là nạn nhân của thời tao loạn, sự nghèo nàn và lạnh lẽo đã phủ một lớp dày lên những công trình là nơi đón vua một thuở.

Qua bài viết trên có lẽ các bạn đã hiểu được lịch sử biến động của chùa Tam Thai cũng như Phật Giáo thời Vua Nguyễn diễn ra như thế nào. City Tour sẽ tiếp tục chia sẽ thêm nhiều bài viết hay, các bạn có thể theo dõi tại Fanpage City Tour Đà Nng hoặc tại chính Trang này.

TÀI LIỆU THUYẾT MINH VỀ BẮC ĐẾ TRẤN VŨ TẠI CHÙA CẦU – HỘI AN

Khi bước chân vào trong Chùa Cầu Hội An, trên bàn thờ có một vị thần đặc biệt, không phải Phật như mọi người nghĩ, vậy vị thần này là ai và có ý nghĩa gì với người Hội An, City Tour Đà Nng xin chia sẽ bạn đọc bài viết dưới đây:

Ở chùa Cầu Hội An, Bắc Đế Trấn Vũ (tức Huyền Đế) được thờ trang trọng ở vị trí trung tâm chánh điện của chùa với một bức tượng bằng gỗ mít. Nhiều thế kỷ trôi qua, bức tượng đã bị các loài côn trùng gặm nhấm làm hư hại một số mảng trên thân nên ngành bảo tồn ở Hội An đã phục chế một bức tượng khác để thờ tự tại chùa Cầu, còn bức tượng gốc được đưa về trưng bày và bảo quản tại Bảo tàng Hội An.

https://citytourdanang.com/wp-content/uploads/2017/09/%C3%BD-ngh%C4%A9a-c%E1%BB%A7a-th%E1%BA%A7n-b%E1%BA%AFc-%C4%91%E1%BA%BF-tr%E1%BA%A5n-v%C5%A9-t%E1%BA%A1i-h%E1%BB%99i-an.jpg

Tượng (ảnh trái) và bàn thờ Bắc Đế Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An. Ảnh: V.V.H

Tượng Bắc Đế phục chế được sơn màu, thể hiện rõ nét những màu sắc tương ứng với chi tiết trên thân tượng. Y theo tượng gốc, Bắc Đế cũng đứng với phong thái uy nghi, tóc dài buông xõa, đầu đội mũ vàng nạm ngọc, râu năm chòm phất phơ bay, áo dài màu xanh buông sát đất, ngoài mặc áo giáp, chân trần đứng trên lưng một con rùa có rắn quấn quanh, hai tay cầm thanh bảo kiếm trong tư thế ấn xuống mặt biển (mặt biển là một trôn đế hình tròn, thể hiện sóng nước đang cuộn dâng).

Tương truyền vào năm 1118, hoàng đế Tống Huệ Tông (Trung Hoa) sai đạo sĩ Lâm Linh Tố lập đàn, làm phép mời Bắc Đế Trấn Vũ hiện thân. Lễ cầu đảo được tổ chức vào giữa trưa ngay trong cung điện. Vào giữa buổi lễ, trời đất tối sầm, bỗng xuất hiện một con rùa và một con rắn, Tống Huệ Tông bèn cúi lạy, dâng hương mong Thần hạ cố hiện nguyên hình thật.

Bỗng một luồng sấm sét xuất hiện, người ta nhìn thấy một bàn chân khổng lồ hiện ra trước cổng cung điện, Huệ Tông cúi lạy và lúc này Thần hiện nguyên hình là một người cao lớn hơn 10 thước, khuôn mặt nghiêm nghị, có hào quang bao quanh, tóc buông xuống lưng, chân để trần, mặc áo đen buông sát đất, ống tay áo rộng, bên ngoài có áo giáp vàng với đai lưng ngọc, trên tay cầm thanh gươm, đứng một lát rồi biến mất.

Tống Huệ Tông là vị vua nổi tiếng về hội họa, lập tức ông vẽ lại chân dung Thần. Về sau, chân dung này là hình mẫu dùng để vẽ cho những nơi có điện thờ Bắc Đế Trấn Vũ.
Tượng Bắc Đế không mang giày dép, chân đạp rùa, rắn được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Có người cho rằng, rùa và rắn chính là những thiên tướng trên trời, dưới quyền cai quản của ngài. Còn người khác lại cho rằng, rùa và rắn chính là những con quỷ thù địch đã bị Bắc Đế đánh bại và chà dưới chân,…

Nhưng thực ra, rùa và rắn chính là hình thức đầu tiên của Thần, đã thấy xuất hiện từ thời Hán, khi người ta phân chia ra các phương cai trị của thần linh. Lúc đó, rùa và rắn màu đen làm chủ phương Bắc; còn chim đỏ ở phương Nam; hổ trắng tượng trưng cho phía Tây và rồng lục tượng trưng cho phía Đông của thế giới. Còn hình người thì về sau này người ta mới thấy xuất hiện.

Và hình ảnh “Bắc Đế Trấn Vũ chân không giày dép, đứng trên hai con rùa và rắn” thì vào đời nhà Minh, Đạo giáo ở Trung Hoa phát triển mạnh mẽ, người ta đã thêu dệt nên những câu chuyện huyền thoại về thân thế và việc tu đạo của ngài.

Người ta cho rằng, ngài là linh hồn của Ngọc Hoàng Thượng Đế hóa thân xuống trần gian để tu đạo. Ngài đã bốn lần hóa kiếp người và tu ở bốn nước khác nhau (một lần ở núi Linh Thứu, hai lần ở núi Bồng Lai và lần thứ tư ở nước Tịnh Lạc).

Trong ba lần đầu, ngài chưa đủ trí lực để điều khiển các thiên tướng dưới trướng, cũng như chưa đủ phép thuật để hàng phục yêu ma, nên lần thứ tư ngài lại xuống trần gian đầu thai làm Thái tử của nước Tịnh Lạc. Khi vừa sinh ra, được 9 con rồng phun nước cho ngài tắm. Khi lớn lên, Thái tử rất thông minh, tinh thông võ nghệ. Đến năm 14 tuổi, Thái tử dứt bỏ cuộc sống nơi hoàng cung, tìm đến núi Võ Đang tu đạo.

Suốt 42 năm, ngài một mình ngồi trên phiến đá tập trung trí lực, chăm chú tu luyện. Ngài không ăn cơm, không uống nước, làm cho dạ dày và ruột đói cồn cào nên chúng cứ sinh sự, cãi vã nhau làm cho ngài không thể ngồi yên.

Ngài liền mổ bụng, móc hết dạ dày và ruột ném xuống đống cỏ sau lưng. Ở trong đống cỏ, dạ dày và ruột ngày đêm nhìn ngài tu luyện, ngài đã trở thành một con người thần thông quảng đại, biến hóa khôn lường. Một hôm, ruột bỗng chui vào ống quần ngài và biến thành một con rắn lớn, toàn thân mang đầy vẩy rồng. Còn dạ dày thì nắm lấy giày của ngài, khoác lên lưng, lăn ba vòng và biến thành một con rùa đen, có mai cứng như sắt.

Chúng bò xuống núi ăn gà, lợn, trâu, bò, dê và cả con người dưới chân núi Võ Đang. Ngài liền cưỡi mây, đạp gió, khoác bảo kiếm đi thu phục, đè chúng dưới chân mình. Chúng bèn van xin ngài tha mạng. Ngài quy thuận và thu phục chúng làm hai tướng của mình.

Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng của người Hoa. Hình ảnh của Bắc Đế được thờ tự rất nhiều nơi trên đất nước ta. Ở Hà Nội, việc thờ Bắc Đế gắn liền với công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc ta; bên cạnh đó Ngài còn hiển linh giúp chính quyền phong kiến trừ diệt yêu ma, yên ổn trong quá trình xây dựng các công trình kiến trúc thành quách, dinh thự. Còn ở khu vực Nam bộ, Bắc Đế được thờ ở rất nhiều địa phương của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bởi nhiều thế kỷ trước, nơi đây còn hoang vu, lầy lội, là nơi chứa đựng nhiều huyền bí,… nên những lưu dân luôn có cảm giác sợ hãi trước thiên nhiên, họ đặt niềm tin vào các đấng Thần linh, mà điển hình là Bắc Đế Trấn Vũ – vị Thần có khả năng chế ngự yêu ma, khống chế cả những cơn lũ kinh hoàng, và cả muôn thú dữ tợn của miền đất này.

Còn ở Hội An, việc thờ tự Bắc Đế gắn liền với việc trị thủy, vì khu phố cổ Hội An nằm trên nền địa chất có nguồn gốc biển gió của vùng đất bồi hạ lưu sông Thu Bồn. Đây là một vùng đất mà địa chất có nhiều biến động, và được bao quanh bởi các con sông. Trong khi đó, sông Thu Bồn là con sông có lượng nước lớn nhất miền Trung, lại nằm gần một trong những trung tâm mưa lớn của cả nước. Hàng năm, sông Thu Bồn đổ ra biển khoảng 20km3 nước, do lượng nước lớn dồn dập trong một thời gian ngắn, cửa sông lại hẹp, làm cho bờ sông có lúc lở lúc bồi, lúc bị cắt xé từng mảng trong mùa mưa lũ. Ở Hội An, từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch thường xảy ra lũ lụt. Mỗi năm, Hội An phải hứng chịu rất nhiều đợt lũ kèm theo giông bão, mỗi khi lũ dâng, những dãy nhà ven sông thường ngập chìm trong biển nước, phải đến 3 – 4 ngày sau, thậm chí cả tuần nước mới rút. Giáo sĩ dòng Tên, người Ý là Cristophoro Borri có mặt ở Quảng Nam thế kỷ XVII, nhận xét: “…những cơn mưa liên tục từ trên triền núi cao, các dòng nước tuôn trào tràn ngập Vương quốc chảy ra đến tận biển…”.

Chính vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt ở Hội An, nên những cư dân ở đây không có khả năng chống đỡ trước sự tàn phá của tự nhiên. Kể từ khi đến Hội An, những thương nhân người Hoa đã trải qua những chặng đường đầy gian nan vất vả, đến vùng đất mới lại có nhiều biến động về địa chất, đối đầu với thiên nhiên khắc nghiệt càng làm cho họ thêm lo sợ, nên họ đặt niềm tin của mình vào một thế lực siêu nhiên, có khả năng ngăn chặn triều cường, điều hoà phong thổ, giúp họ thuận lợi trong việc ăn, ở và buôn bán. Quá lo sợ, họ đặt niềm tin của mình vào Bắc Đế Trấn Vũ, cầu mong thần ngăn chặn triều cường, điều hòa phong thổ, giúp họ thuận lợi trong việc ăn, ở và có thêm niềm tin trong công cuộc mưu sinh.

Tín ngưỡng thờ Bắc Đế tại Chùa Cầu chứa đựng nhiều giá trị độc đáo. Nó thể hiện cho thời kỳ Đạo giáo phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc và lan tỏa ra nhiều quốc gia trên thế giới, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của người dân. Khi con người xuôi tay, bất lực trước những tai họa của thiên nhiên, họ không thể tự cứu rỗi mình, nên phải dựa vào một lực lượng siêu nhiên là các vị Thần linh. Trong đó, Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần có khả năng trị thủy, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những cơn địa chấn diễn ra ở Hội An, ổn định về mặc phong thổ, giúp cho cư dân làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió. Trước đây, cộng đồng người Minh Hương ở Hội An thường tổ chức lễ cúng Long Chu vào ngày 20 tháng 7 âm lịch hàng năm. Lễ cúng được tổ chức thành một đám rước thuyền rồng lôi cuốn đông đảo người dân tham dự, kéo dài qua nhiều ngả phố, trong tiếng nhạc bát âm, tiếng kèn, trống rất rộn ràng, nhằm tôn vinh quyền uy của Bắc Đế Trấn Vũ. Alber Sallet – một tác giả người Pháp, đã viết về lễ hội Long Chu ở Chùa Cầu trước đây: “Lễ hội theo tập tục đó tiến hành ngày 20 tháng 7 âm lịch. Lễ hội diễn hành náo nhiệt. Trong quá trình diễn ra lễ hội đó, một chiếc thuyền bằng hàng mã lớn được trình bày ra với đủ buồm lái. Nó được đốt đi sau khi kết thúc lễ hội”.

Hiện nay tại Chùa Cầu, vào các ngày rằm, ngày mồng một, ngày tết,… cư dân Hội An đến thắp nhang trước tượng Bắc Đế, người ta chỉ làm vậy là đủ, là thể hiện sự tôn trọng, sùng bái và cầu mong sự che chở của Thần.

Tài liu tham kho:

– Quốc sử quán triều Nguyễn.Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, Sài Gòn, 1964.
– Cố Hy Giai.Bồ Tát ngoại truyện(Dương Thu Ái – Nguyễn Kim Hanh dịch), Nxb. VHTT, 2003.
– Henri Maspero.Đạo Giáo và các tôn giáo ở Trung Quốc(Lê Diên dịch), Nxb. KHXH Hà Nội, 2000.
– Cristophoro Borri.Xứ Đàng Trong năm 1621(Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị dịch), Nxb. TP.HCM, 1998.
– Vương Kiến Huy, Dịch Học Kim (chủ biên).Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc, Nxb. Thế giới, 2004.
– Thích Đại Sán.Hải Ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế – Ủy ban phiên dịch sử liệu ViệtNam, 1963.

THUYẾT MINH VỀ LÀNG ĐIÊU KHẮC ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC- NGŨ HÀNH SƠN

Thuyết minh về làng điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước Ngũ Hành Sơn. 

👍 Kính thưa quý khách: Nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước được coi là làng nghề lâu đời nhất và nổi tiếng nhất Đà Nẵng. Trải qua gần bốn thế kỷ tồn tại, các sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước mang đậm tính nghệ thuật đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vươn ra tầm thế giới, trở thành niềm tự hào và đem lại nguồn thu đáng kể cho làng nghề Non Nước.
https://citytourdanang.com/wp-content/uploads/2017/06/lang-nghe-dieu-khac-da-ngu-hanh-son.jpg

Hình: Cơ sở điêu khắc Nguyễn Hùng

Thuyết minh lịch sử hình thành làng nghề đá:

– Theo phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì làng đá ngũ hành sơn đà nẵng trước đây có tên là:Quán Khái Đông Giáp và Quán Khái Tây Giáp, được hình thành từ giữa thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18. . Dựa theo văn bia của Tiền hiền họ Huỳnh có ghi: “Thạch tượng Quán Khái Đông Huỳnh Bá Công thỉ khai” và “ Bổn xã Huỳnh Bá Tộc lập” cùng với sự kể lại của các cụ già ở đây thì nghề đá ở chân núi Ngũ Hành có thể ra đời cùng với thời điểm lập làng.  Ông tổ nghề là một người quê gốc Thanh Hóa, tên là Huỳnh Bá Quát, người đã có công đem nghề đá từ xứ Thanh vào Đà Nẵng. Tại làng hiện nay vẫn còn nhà thờ “Thạch Nghệ Tổ sư”; ngày mùng 6 tháng Giêng Âm lịch hàng năm là ngày giổ Tổ của làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước.

Ban đầu, ở vùng này, số người biết nghề làm đá không nhiều; sản phẩm làm ra chủ yếu để phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương, như các loại cối giã gạo, cối xay ngũ cốc hoặc các bia mộ được khắc bằng đá. Đến khoảng đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn cho xây dựng nhiều cung điện, lăng tẩm, nghề đá ở đây có điều kiện phát triển, uy tín của làng nghề cũng nâng cao, một số thợ giỏi được triều đình phong hàm Cửu phẩm, nhiều thợ của làng được mời đi làm nghề ở khắp nơi.

https://citytourdanang.com/wp-content/uploads/2016/10/tour-%C4%91%C3%A0-n%E1%BA%B5ng-1-ng%C3%A0y-gi%C3%A1-r%E1%BA%BB-3.jpg

Hình: Người dân đang hoàn thành bức tượng phật Quan Thế Âm

Trước kia, đá nguyên liệu thường được khai thác tại chỗ – núi đá Ngũ Hành Sơn, chủ yếu là đá cẩm thạch, có nhiều màu sắc, hoa văn đẹp như màu đỏ, đen, trắng, kết cấu mịn, mềm, dễ đục. Tuy nhiên, do nguồn nguyên liệu tại chỗ ngày càng cạn kiệt, từ năm 1990, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng ra quyết định không cho phép khai thác đá ở Ngũ Hành Sơn nữa, thợ làng nghề phải nhập đá từ các nơi khác về.

Khi có nguyên liệu, thợ điêu khắc đá sẽ tạo hình sản phẩm ở dạng thô. Đó là công đoạn ra phôi. Quá trình ra phôi được thực hiện bài bản gồm nhiều công đoạn như: tìm mặt phẳng để tạo chân đế, xác định điểm chuẩn tạo hình, vẽ phác thảo trên giấy, sau đó vẽ lên mặt đá hoặc in trực tiếp lên tảng đá. Với những sản phẩm khó, có giá trị nghệ thuật cao, người thợ phải vẽ phác thảo và làm phôi bằng đất sét trước, khi đạt yêu cầu họ mới làm chính thức. Theo bản vẽ phác thảo, người thợ tiến hành đục phôi, tạo hình sản phẩm.

Khi phôi hoàn thành, người thợ sẽ làm các chi tiết để hoàn thiện sản phẩm, như: chạm hình nét, trang trí hoa văn, mài, đánh bóng sản phẩm. Với người thợ, ở công đoạn này, việc quan trọng nhất là chạm hình nét và trang trí. Công đoạn thực hiện chi tiết thể hiện kỹ thuật chạm khắc đá và đôi tay vàng của người thợ. Ngoài quy trình chung cho tất cả các sản phẩm, thì mỗi loại sản phẩm lại có yêu cầu kỹ thuật cụ thể.

Để sản phẩm có màu sắc đẹp, đôi khi người thợ phải nhuộm đá bằng phẩm màu kết hợp với bã chè xanh, xi đánh giầy màu nâu, màu chàm… Bí quyết để có màu đẹp phụ thuộc vào việc pha màu, tạo nhiệt độ và dùng độ đậm nhạt của màu. Sản phẩm hoàn thiện cần trải qua nhiều công đoạn, nhờ bàn tay tài năng, kinh nghiệm của người thợ.

Tọa lạc trong vùng đất Ngũ Hành Sơn, ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Champa từ Thánh địa Mỹ Sơn, làng đá mỹ nghệ là sự giao thoa một cách hài hòa của hai nền văn hóa Việt Cổ và Champa. Điều này đã tạo nên dòng chảy phong phú cả về sự sáng tạo lẫn hình tượng nghệ thuật để mang đến những tác phẩm đầy sức sống theo thời gian. Mỗi tác phẩm không chỉ được đục đẽo, mài gọt bằng bàn tay khéo léo, đôi mắt tinh anh, mà ở đó, người nghệ nhân còn gửi gắm tình cảm và thổi hồn sức sống cho “đứa con” của mình.

Du lịch Đà Nẵng đến làng đá, du khách sẽ được chìm đắm trong thế giới của vô vàn những dòng sản phẩm khác nhau với vẻ đẹp tinh tế đến từng góc cạnh. Sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước – Ngũ Hành Sơn hết sức đa dạng và phong phú. Du khách sẽ không thể cưỡng lại được trước những đường nét sắc sảo, tinh tế của các tác phẩm điêu khắc, với độ bóng mịn của lớp đá cẩm thạch chỉ có ở núi Ngũ Hành Sơn với những hình ảnh kiêu sa mà gợi tình của những cặp tình nhân, với sự hùng dũng nhưng không kém phần lãng tử của những chúa tể sơn lâm; hay sự yên bình, trong lành, thanh khiết của những vị Bồ Tát, Phật tổ; những chiếc vòng tay nhỏ bé, xinh xắn, trong suốt; những cây trâm cài tóc với các hình dáng, kích thước khác nhau… Tất cả tạo nên một làng đá đa dạng, phong phú và độc đáo. Các sản phẩm mỹ nghệ của làng đá Non Nước- Ngũ Hành Sơn là những vật kỷ niệm đầy ý nghĩa của danh thắng đã theo chân các du khách có mặt ở nhiều nơi trên thế giới.

Làng nghề đá mỹ nghệ vươn tầm thế giới

Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước ẩn chứa các lớp lịch sử, văn hóa trong từng công đoạn của nghề, trên từng sản phẩm, là bảo tàng sống về sinh hoạt văn hóa, đời sống tinh thần của người dân địa phương.

Hiện nay, nghề này còn có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế – xã hội của cộng đồng, góp phần quan trọng vào sự dịch chuyển cơ cấu nông thôn, chuyển từ lao động giản đơn, năng suất thấp sang lao động có kỹ năng, năng suất cao. Nghề đã tận dụng được nguồn lao động nhàn rỗi, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân…

Hiện làng nghề này có gần 500 cơ sở sản xuất đá mỹ nghệ, tập trung xung quanh khu vực dưới chân danh thắng Ngũ Hành Sơn với gần 4.000 lao động, chiếm gần 80% hộ dân cư trên các tuyến đường Nguyễn Duy Trinh, Huyền Trân Công Chúa (khu vực Đông Hải, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn).

Tại làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước có nhiều nghệ nhân nổi tiếng, nhiều gia đình có tới bảy tám thế hệ làm nghề điêu khắc đá. Khách tham quan từ nhiều nước đến đây đều ngưỡng mộ tài năng của các nghệ nhân điêu khắc và những sản phẩm độc đáo của họ. Ngoài những sản phẩm lưu niệm, nếu khách hàng muốn đặt mua những sản phẩm có trọng lượng lớn, cỡ kích to thì tùy theo thỏa thuận giữa người mua và người bán kèm với địa chỉ của khách hàng, sản phẩm sẽ được bên bán đóng kiện cẩn thận và gửi theo đường biển đến tận nơi cho khách hàng.

Rất nhiều thương gia hoặc khách du lịch từ Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Australia, Pháp, Canada, Hà Lan, Mỹ… đã đến ký hợp đồng đặt mua các sản phẩm ở làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, trong đó có có những hợp đồng trị giá hàng trăm ngàn USD.

Với những lợi thế và tiềm năng phát triển của làng nghề, UBND Quận Ngũ Hành Sơn cũng đã đề ra định hướng phát triển làng nghề từ nay đến năm 2020 với mục tiêu được xác định là: Phát huy lợi thế của làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ truyền thống Non Nước, tiếp tục phát triển công nghiệp chế tác trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, nhằm tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh trong nước và quốc tế; Quy hoạch lại làng nghề theo hướng mở rộng làng nghề hiện nay và đẩy mạnh phát triển thương mại kết hợp với phát triển du lịch; Ưu tiên phát triển mạnh làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước trên địa bàn được quy hoạch, khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp và tư nhân đầu tư phát triển các sản phẩm mỹ nghệ từ đá với quy mô lớn.

Có thể nói, mỗi tác phẩm điêu khắc là một thành quả lao động kỳ công của những bàn tay tài hoa và cẩn mẫn. Từng mũi khoan, nét đục đẽo của những nghệ nhân đều thể hiện một tình yêu vô cùng với những tảng đá vô tri, tình yêu với nghề truyền thống bao đời của cha ông, tình yêu với đất nước, quê hương. Bao thế hệ nghệ nhân và con cháu của họ mỗi ngày đều cần mẫn làm việc để có thể tạo ra những tác phẩm có giá trị nhất, giữ vững và phát huy nét đẹp của làng nghề truyền thống, giới thiệu với bạn bè quốc tế về sự tài hoa của người Việt.

Năm 2014, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch chính thức công nhận Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Theo đó, Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước đã hội đủ 4 tiêu chí theo quy định của Luật Di sản Văn hóa: Có tính đại diện, thể hiện bản sắc cộng đồng, địa phương; phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người, được kế tục qua nhiều thế hệ; có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài; được cộng đồng đồng thuận, tự nguyện đề cử và cam kết bảo vệ.

Thông tin thêm: Năm 2006, Hội làng nghề truyền thống điêu khắc đá Non Nước – Ngũ Hành Sơn được thành lập với sự tham gia của hơn 150 hội viên. Đặc biệt, trong năm 2013, có 03 hội viên của Hội làng nghề vinh dự được Chủ tịch Nước công nhận là nghệ nhân ưu tú gồm các nghệ nhân Lê Bền, Nguyễn Việt Minh và Nguyễn Long Bửu.

Nghệ nhân Nguyễn Việt Minh, đại diện Hội làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước cho biết, tổng số hộ sản xuất – kinh doanh đá mỹ nghệ Non Nước là 495 hộ, chiếm gần 80% hộ dân cư trên tuyến đường Nguyễn Duy Trinh, Huyền Trân Công Chúa khu vực Đông hải, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn. Doanh thu của Làng điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước đạt hơn 312,7 tỷ đồng (năm 2012) và 406,5 tỷ đồng (năm 2013) với số lao động tương ứng là 3,700 và 3.850 người. Làng nghề hiện sản xuất các sản phẩm đa dạng, đủ kích cỡ tuỳ theo yêu cầu của khách hàng. Trong đó, những sản phẩm được mang Nhãn hiệu chứng nhận “Đá Non Nước” bao gồm tượng tôn giáo, tín ngưỡng, tượng danh nhân, tượng người, tượng cách điệu, bàn ghế, bồn tắm, tượng thú, đèn vườn, bình hoa và bia mộ. Trước những năm 1980, nguồn nguyên liệu của Làng nghề được khac thác tại chỗ. Từ sau năm 1980, chuyên liệu được mua chủ yếu từ các tỉnh phía bắc như Thái Nguyên, Thanh Hoá, Quảng Ninh và Bắc Cạn. Bình quân mỗi cơ sở tiêu thụ khoảng 7-12 tấn nguyên liệu/tháng. Khoảng 70% các sản phẩm của Làng nghề được bán trực tiếp khi khách đến tham quan tại các cơ sở sản xuất trong Làng nghề và được các đơn vị uỷ thác xuất trực tiếp cho khách hàng tại các nước Mỹ, Úc, Hồng Kông, Đài Loan, Nga… Còn lại 30% sản phẩm được khách hàng tại TP HCM và các đơn vị tôn giáo trong cả nước đặt mua.

 

 

Hỗ trợ trực tuyến
TOUR DU LỊCH HÀ LINH
Mr Dương
0986818629
XE DU LỊCH HÀ LINH
Văn Phòng
0949618811
Video
Video nổi bật
Tin mới
Thống kê truy cập
Quảng cáo
^ Về đầu trang